Du lịch BLÓG

Du lịch 48h - Chuyên trang cung cấp thông tin về ngành du lịch, các điểm đến lý tưởng cho du khách
Showing posts with label Đặc sản vùng miền. Show all posts
Showing posts with label Đặc sản vùng miền. Show all posts

Ba Đồn - Bát cháo canh nổi tiếng Miền Trung

Cháo canh có mặt gần như khắp các vùng phía bắc miền Trung, đặc biệt là Quảng Trị, Quảng Bình. Nhưng bát cháo canh quê hương Ba Đồn, phía Bắc sông Gianh lại khác. Cháo không nấu từ tôm, cá lóc, hay nguồn cá nước ngọt, mà bát cháo dậy khói từ con cá Biển Đông.

Sợi cháo làm từ bột gạo nấu với cá biển có hương vị thơm ngọt, mặn mòi của biển khơi.

Một người bạn ở Quảng Trạch rủ chúng tôi về chơi, mỗi bận ghé thăm vùng đất có Đèo Ngang là mỗi lần lạ lẫm với món cháo canh Ba Đồn. Từ mấy trăm năm trước, món cháo có cả một câu chuyện truyền khẩu nhớ thương lứa đôi.

Bát cháo của mối tình bên sông

Chuyện kể rằng, một bữa mùa đông, khi đàng Trong đàng Ngoài còn phân tranh, dòng sông Gianh là giới tuyến. Một người lính canh đồn bên mô đất sông Gianh của nhà Trịnh đã ngã lòng với một người con gái phía bờ Nam nhà Nguyễn. Người con gái vốn con nhà của một thuyền ngư dân đánh bắt trên biển, tuy là chia giới tuyến, nhưng buôn bán hoặc đánh bắt vẫn cứ giao thoa nhau. Phía Nam sông Gianh có món cháo canh vẫn thường đưa về bán cho các đồn ở bờ Bắc. Lính lệ vừa ăn vừa thổi trên những chiếc thuyền nhỏ ven trảng cát, phải ăn vội vàng vì sợ quan cai phát hiện mua đồ phía nam, sợ lệnh trên phạt nặng vì lơ là canh phòng.

Nhưng “sương khói” của bát cháo cứ quấn lấy lòng người phía bắc, rồi một lính canh đã phải lòng người con gái bán cháo canh rày đây mai đó trên sông. Và rồi họ cũng ở với nhau, nhưng khi biết chuyện, họ lại bị cấm thuỷ chung, người đàng Trong không được cưới người đàng Ngoài. Khóc hết nước mắt, đôi trai gái ở miền thảo dã biên thuỳ chỉ xin cùng ở lại phía Bắc một đêm. Cũng vì nghĩa tình, cai lính đã cho phép cô gái thả neo phía ngoài đồn, đêm đó thuyền nổi lửa to hơn thường lệ. Thì ra cô gái nấu một nồi cháo thật lớn để đãi cả đồn lính canh. Món cháo cô thường nấu là cá từ sông Gianh đánh bắt được, nhưng hôm đó, cô suy nghĩ thoáng qua, nấu cháo cá của dòng sông này, lỡ ai hỏi bắt cá phía nào cũng…khó nói. Vậy nên cô đã mua cá biển của ngư dân đánh bắt từ phía biển để nấu cháo buổi chia ly.

Bữa sáng, chị dọn những bát cháo trên mẹt lá, mời những người lính phía đồn của chúa Trịnh bên mô đất sông Gianh. Họ xì xụp ăn, cái vị lạ, nồng thơm mùi biển, có người hỏi, sao không thấy cá sông Gianh; có người hỏi, cá biển bắt đàng Trong hay Ngoài? Người con gái vô danh ấy nói: “Cá ở biển thì làm sao phân biệt được đâu là Trong là Ngoài được. Cá đều của biển quê cha đất tổ. Mời các thầy đội cùng ăn”. Không ngờ câu nói đó, những người lính quý thương tấm lòng, đã xin cho người con gái phía đàng Trong làm dâu người lính canh phải lòng, nhưng chỉ với một điều kiện, anh phải giải ngũ. Từ đó, họ về phía sau, mở món cháo canh bán cho những người đi chợ tụ hội về Ba Đồn.

Cháo canh của người… du mục

Thật ra cháo canh Ba Đồn của ngày xưa vẫn không khác ngày nay là mấy. Đó là món ăn rất dân dã, không hề cầu kỳ, chỉ khác xưa không nêm nếm bột ngọt mà bằng ruốc biển. Mấy trăm năm món cháo tồn tại xứ Ba Đồn đều nấu từ con cá biển như cá nục, cá trích, cá ngừ, cá thu, cá ngứa, cá chim...đều ngon ngọt đậm đà. Nước dùng được hầm từ xương cá, cá luộc rồi vẽ thịt cho vào bát. Sợi cháo làm từ bột gạo, dùng ống tre dằn đều, cắt sợi cho vào nồi nước dùng đang sôi, chín tới, bỏ hành tiêu, nén múc ra bát; khói lên thơm, vị cháo canh ngọt đáo để. Kiểu nấu này ngày nay miệt Nam, Nam Trung bộ gọi là bánh canh.- du lịch Nha Trang, du lich Da Lat, du lich Nha Trang Da Lat

Ba Đồn xưa là vùng chinh chiến liên miên của mấy trăm năm phân tranh, nên món này còn được truyền như bát cháo canh du mục. Cháo canh Ba Đồn bán từ sớm ở góc chợ bò, chợ phiên, thu hút thực khách khắp vùng hoặc cho những ai đi Bắc vào Nam đều ghé lại thưởng thức. Vậy, mà tính “du mục” của nó như không mất đi. Dù đã sang thế kỷ 21, nhưng chốn ngồi ăn bát cháo ở Ba Đồn vẫn y như chỗ ngồi của trăm năm trước. Bàn ăn đơn giản, băng ghế dài làm thượt, người địa phương gọi là đòn bào, ghế dài có khi cả hai mét, cứ vài ba người tụ lại, không quen biết nhau ngồi một băng, cứ ngồi vào là người bán bưng ra. Ăn bát cháo gốc gác vùng đất này mới biết người bản địa tài hoa lịm hồn trong cách dùng các loại cá biển nấu cháo, nó không gây tanh mà thơm ngon lạ thường bởi cách hấp cá...

Ngày nay, những ngư dân ven biển Quảng Trạch không chỉ đánh bắt vùng lộng mà còn đóng thuyền lớn đánh cá ở Hoàng Sa, người Ba Đồn lại có thêm phong vị món cháo cá biển Hoàng Sa. Anh bạn tôi vẫn thường mua cá đánh bắt từ những thuyền đi Hoàng Sa về đãi khách. Bưng bát cháo lên giữa chộn rộn cuộc sống hôm nay, vẫn nhớ vô cùng bao sức lực tiều ngư sớm hôm chống chọi bất trắc để đưa về phía bờ hương vị biển cả quê nhà.

Bài và ảnh: Quốc Nam Nguồn : SGTT - du lịch Đất Việt

Read More...

Tô mì Quảng và bê thui Cầu Mống đạt kỷ lục Việt Nam

Tô mì Quảng phục vụ 600 người ăn cùng đĩa bê thui Cầu Mống có đường kính 4,5 m, cao 0,65 m ở Quảng Nam vừa được xác lập kỷ lục Việt Nam.

Chiều 22/6, tại xã Điện Minh (Điện Bàn, Quảng Nam), Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam đã trao chứng nhận xác lập hai kỷ lục tô mì Quảng Phú Chiêm lớn nhất và đĩa bê thui Cầu Mống lớn nhất.


Tô mì Quảng đạt kỷ lục có thể phục vụ cho 600 người ăn. Ảnh: Nguyễn Đông

Tô mì phục vụ cùng lúc cho 600 người ăn được làm từ 105 kg mì Quảng, gần 50 kg thực phẩm làm nhân như thịt ba chỉ, tôm đất, cua đồng và rau sống lấy từ làng rau Trà Quế (Hội An). Toàn bộ được đặt trong chiếc tô có đường kính 3,6 m, cao 1,5 m, bên ngoài được khảm sành cổ thời Nguyễn.

Còn đĩa bê thui được làm từ nguyên liệu chính là thịt bê ở Cầu Mống, mắm nêm cùng các gia vị đi kèm, đặt trong chiếc đĩa lớn với đường kính 4,5 m, cao 0,65 m, phần đế 0,05 m và bên ngoài cũng được khảm sành cổ thời Nguyễn.


Đĩa bê thui có đường kính 4,5m đạt kỷ lục đĩa bê thui lớn nhất Việt Nam. Ảnh: Nguyễn Đông

Trước đó, Tổ chức Kỷ lục châu Á đã xác lập mì Quảng là một trong 12 món ăn Việt Nam đạt tiêu chí "Giá trị ẩm thực châu Á" và Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công nhận bê thui Cầu Mống vào top 50 món ăn đặc sản nổi tiếng Việt Nam.

Buổi lễ xác lập hai kỷ lục này nằm trong chuỗi chương trình phụ trợ của Festival di sản Quảng Nam lần thứ 5 khai mạc vào tối 22/6.

Nguyễn Đông

Read More...

Bún chả lọt top 10 món ngon mùa hè của CNN

Bên cạnh các món ăn được yêu thích trong mùa hè trên khắp thế giới, CNN giới thiệu món bún chả trong lòng phố cổ Hà Nội như một trải nghiệm ẩm thực khác biệt hấp dẫn thực khách.

Những món ăn mát lạnh, ngọt ngào thường là lựa chọn hấp dẫn nhất trong mùa hè. Nhưng ở một số nước, những món ăn có tính nóng cũng rất được ưa thích trong thời tiết oi bức. Dưới đây là danh sách các món ăn ngon nhất dành cho mùa hè ở khắp các châu lục.

Bún chả, Việt Nam

Bún Chả là sự kết hợp hoàn hảo hai món ăn được yêu thích trong mùa hè: thịt nướng và salad (dưa góp, rau sống). Điều đặc biệt thu hút thực khách không chỉ từ những vỉ nướng chả thơm lừng trên bếp than mà còn nằm ở bát nước chấm đậm đà chua, cay, mặn, ngọt. Dưới cái nóng hè oi ả, thả những cọng bún trắng, mềm, mát lạnh vào bát nước chấm sẽ cảm nhận vị ngon độc đáo khó quên cho bất kỳ ai đã từng được thưởng thức.

Kulfi, Ấn Độ

Vượt lên các món kem thông thường, Kulfi - một loại kem đặc biệt của Ấn Độ được lựa chọn vào danh sách. Món kem truyền thống Ấn Độ này có đậm vị kem sữa hơn, thơm dịu khác biệt với hương hoa hồng và xoài. Người ta phục vụ Kulfi trong những chiếc ‘matkas’ (niêu đất nhỏ) để cách nhiệt và giữ kem lạnh lâu hơn.

Elote, Mexico

Elote là tên gọi cho món ngô nưỡng kiểu Mexico. Bắp ngô khi nướng gần chín được quết thêm phomai hoặc sốt mayonaise, sau rắc thêm ớt bột, dừa nạo và nước cốt chanh.

Mỳ Naeng, Hàn Quốc

Món mỳ lạnh Hàn Quốc nối tiếng thường được phục vụ trong những tô nước đá lớn, giữ cho bát mỳ luôn mát lạnh cho đến khi thưởng thức sợi cuối cùng. Sợi mỳ làm từ kiều mạch, dẻo dai được trộn lẫn với dưa chuột, lê, trứng luộc, thịt bò và chìm vào nước dùng lạnh thơm mùi mù tạt.

Acarajé và Vatapá, Brazil

Đến từ miền đông bắc vùng đất của ‘những mùa hè vĩnh cửu', Acarajé và vatapá là 2 món ăn đường phố nổi tiếng ở Brazil. Acaraje được người Brazil yêu thích như người Mỹ thích bánh mỳ kẹp thịt. Người ta ngâm và tách vỏ đậu Fradinho, nấu nhừ và nghiền cùng tôm, hành, sau đó viên tròn và đem chiên. Acaraje thường ăn kèm với Vatapá, sốt gồm dầu Dende, nước dừa, cá thêm ớt, tỏi và đinh hương, đặc biệt có bột sắn tạo độ sệt.

Halo – Halo, Philippines

Tên của món tráng miệng Philipine có nghĩa là ‘mix-mix’ (trộn lẫn). Món giải khát được làm từ nhiều loại hoa quả nhiệt đới như: mít, đu đủ, chuối, hồng xiêm và thường được trộn cùng các loại đậu, khoai, bột bắp hay hạt lọc. Vị mát lạnh của một ly Halo-Halo đến từ những viên kem và đá bào cùng siro. Đây là món ăn rất được yêu thích bởi cả màu sắc lẫn mùi vị.

Lẩu Trùng Khánh, Trung Quốc

Lẩu Trùng Khánh mang đến trải nghiệm ‘mồ hôi và nước mắt’ khó quên cho các thực khách. Nồi nước lẩu gồm các gia vị đặc trưng châu Á và đặc biệt nhiều ớt tươi, hạt tiêu, ăn kèm các đồ nhúng như óc heo, sách bò, lòng cừu…sẽ khiến người ăn đổ mồ hôi và thậm chí chảy nước mắt vì quá cay. Người Trung Quốc cho rằng khi ăn đồ cay như vậy, mồ hôi sẽ toát ra và giúp làm mát cơ thể. Do đó, người dân Trung Quốc đặc biệt yêu thích món này trong mùa hè.

Đá sữa bào, Đài Loan

Thay vì đá bào thông thường, sữa đặc được làm đông và chạy qua các máy cạo để tạo thành những lát đá mềm mịn, tan ngọt trong miệng. Đá bào sữa rất phổ biến ở Đài Loan và nhiều nước Đông Á, thường phục vụ kèm các loại hoa quả tươi cắt miếng để tăng độ hấp dẫn cho món ăn.

Meze, Hy Lạp

Meze là món khai vị đặc trưng của người dân Địa Trung Hải vả Trung Đông, gồm nhiều món được dùng chung với nhau như phomai feta, quả ô liu Kalamata, đậu hầm với sốt Cacik, đậu nghiền, rau cải bó xôi và cả bánh mì.

Ceviche. Peru

Ceviche có nguồn gốc từ Peru, được mệnh danh là ‘gỏi Tây’, hiện là món hải sản phổ biến ở các vùng ven biển của Mỹ, đặc biệt là miền Trung và Nam Mỹ. Ceviche gồm có tôm, cá sống tươi ướp với nước ép cam, chanh, trộn thêm gia vị, ớt bột và dùng kèm hành tây cà chua, các loại rau sống. Tại Peru, có riêng một Lễ hội về món ăn này: Lễ hội Ceviche.


Vũ Nguyên ( theo CNN )

Read More...

Bún chả lọt top 10 món ngon mùa hè của CNN

Bên cạnh các món ăn được yêu thích trong mùa hè trên khắp thế giới, CNN giới thiệu món bún chả trong lòng phố cổ Hà Nội như một trải nghiệm ẩm thực khác biệt hấp dẫn thực khách.

Những món ăn mát lạnh, ngọt ngào thường là lựa chọn hấp dẫn nhất trong mùa hè. Nhưng ở một số nước, những món ăn có tính nóng cũng rất được ưa thích trong thời tiết oi bức. Dưới đây là danh sách các món ăn ngon nhất dành cho mùa hè ở khắp các châu lục.
Bún chả, Việt Nam


Bún Chả là sự kết hợp hoàn hảo hai món ăn được yêu thích trong mùa hè: thịt nướng và salad (dưa góp, rau sống). Điều đặc biệt thu hút thực khách không chỉ từ những vỉ nướng chả thơm lừng trên bếp than mà còn nằm ở bát nước chấm đậm đà chua, cay, mặn, ngọt. Dưới cái nóng hè oi ả, thả những cọng bún trắng, mềm, mát lạnh vào bát nước chấm sẽ cảm nhận vị ngon độc đáo khó quên cho bất kỳ ai đã từng được thưởng thức.

Kulfi, Ấn Độ

Vượt lên các món kem thông thường, Kulfi - một loại kem đặc biệt của Ấn Độ được lựa chọn vào danh sách. Món kem truyền thống Ấn Độ này có đậm vị kem sữa hơn, thơm dịu khác biệt với hương hoa hồng và xoài. Người ta phục vụ Kulfi trong những chiếc ‘matkas’ (niêu đất nhỏ) để cách nhiệt và giữ kem lạnh lâu hơn.

Elote, Mexico

Elote là tên gọi cho món ngô nưỡng kiểu Mexico. Bắp ngô khi nướng gần chín được quết thêm phomai hoặc sốt mayonaise, sau rắc thêm ớt bột, dừa nạo và nước cốt chanh.

Mỳ Naeng, Hàn Quốc

Món mỳ lạnh Hàn Quốc nối tiếng thường được phục vụ trong những tô nước đá lớn, giữ cho bát mỳ luôn mát lạnh cho đến khi thưởng thức sợi cuối cùng. Sợi mỳ làm từ kiều mạch, dẻo dai được trộn lẫn với dưa chuột, lê, trứng luộc, thịt bò và chìm vào nước dùng lạnh thơm mùi mù tạt.

Acarajé và Vatapá, Brazil

Đến từ miền đông bắc vùng đất của ‘những mùa hè vĩnh cửu', Acarajé và vatapá là 2 món ăn đường phố nổi tiếng ở Brazil. Acaraje được người Brazil yêu thích như người Mỹ thích bánh mỳ kẹp thịt. Người ta ngâm và tách vỏ đậu Fradinho, nấu nhừ và nghiền cùng tôm, hành, sau đó viên tròn và đem chiên. Acaraje thường ăn kèm với Vatapá, sốt gồm dầu Dende, nước dừa, cá thêm ớt, tỏi và đinh hương, đặc biệt có bột sắn tạo độ sệt.

Halo – Halo, Philippines

Tên của món tráng miệng Philipine có nghĩa là ‘mix-mix’ (trộn lẫn). Món giải khát được làm từ nhiều loại hoa quả nhiệt đới như: mít, đu đủ, chuối, hồng xiêm và thường được trộn cùng các loại đậu, khoai, bột bắp hay hạt lọc. Vị mát lạnh của một ly Halo-Halo đến từ những viên kem và đá bào cùng siro. Đây là món ăn rất được yêu thích bởi cả màu sắc lẫn mùi vị.

Lẩu Trùng Khánh, Trung Quốc

Lẩu Trùng Khánh mang đến trải nghiệm ‘mồ hôi và nước mắt’ khó quên cho các thực khách. Nồi nước lẩu gồm các gia vị đặc trưng châu Á và đặc biệt nhiều ớt tươi, hạt tiêu, ăn kèm các đồ nhúng như óc heo, sách bò, lòng cừu…sẽ khiến người ăn đổ mồ hôi và thậm chí chảy nước mắt vì quá cay. Người Trung Quốc cho rằng khi ăn đồ cay như vậy, mồ hôi sẽ toát ra và giúp làm mát cơ thể. Do đó, người dân Trung Quốc đặc biệt yêu thích món này trong mùa hè.

Đá sữa bào, Đài Loan

Thay vì đá bào thông thường, sữa đặc được làm đông và chạy qua các máy cạo để tạo thành những lát đá mềm mịn, tan ngọt trong miệng. Đá bào sữa rất phổ biến ở Đài Loan và nhiều nước Đông Á, thường phục vụ kèm các loại hoa quả tươi cắt miếng để tăng độ hấp dẫn cho món ăn.

Meze, Hy Lạp

Meze là món khai vị đặc trưng của người dân Địa Trung Hải vả Trung Đông, gồm nhiều món được dùng chung với nhau như phomai feta, quả ô liu Kalamata, đậu hầm với sốt Cacik, đậu nghiền, rau cải bó xôi và cả bánh mì.

Ceviche. Peru

Ceviche có nguồn gốc từ Peru, được mệnh danh là ‘gỏi Tây’, hiện là món hải sản phổ biến ở các vùng ven biển của Mỹ, đặc biệt là miền Trung và Nam Mỹ. Ceviche gồm có tôm, cá sống tươi ướp với nước ép cam, chanh, trộn thêm gia vị, ớt bột và dùng kèm hành tây cà chua, các loại rau sống. Tại Peru, có riêng một Lễ hội về món ăn này: Lễ hội Ceviche.


Vũ Nguyên ( theo CNN )

Read More...

Món ngon dân dã đất cố đô Hoa Lư

Không chỉ hấp dẫn du khách bởi vẻ đẹp xứ cố đô, nhà thờ đá Phát Diệm, khu hang động Tràng An, hay thế giới thiên nhiên của rừng Cúc Phương... đất Ninh Bình còn được biết đến bởi nhiều món ăn bình dân hấp dẫn.
Dê núi

Thịt dê núi Ninh Bình ngon hơn các vùng khác bởi được nuôi trên núi đá vôi, ăn đa dạng các loại lá cây nên thịt săn chắc hơn. Từ thịt dê có thể chế biến hàng chục món khác nhau, nhưng ngon nhất vẫn là tái dê. Món tái dê được làm rất kỹ lưỡng từ khâu ủ thịt tươi vào lá sả hoặc lá cúc tần để mất mùi hôi đến các loại công đoạn phức tạp khác. Tái dê thường ăn kèm với chuối chát, khế, rau thơm, các loại lá và quan trọng nhất là món nước chấm tương gừng đặc biệt.
Nem chua Yên Mạc

Số người có thể làm đư­ợc loại nem đặc biệt này hiện nay không nhiều bởi ngoài bí quyết nhà nghề đòi hỏi phải có quy trình chế biến tuân thủ hết sức nghiêm ngặt. Ngoài việc chọn lọc và chế biến thịt cần cẩn thận thì khâu gói cũng rất quan trọng. Lớp lá trong cùng th­ường đư­ợc dùng bằng lá ổi có vị bùi, chát thích hợp. Bên ngoài là lớp áo bằng lá chuối còn tư­ơi, nem được gói thật chặt và kín để chóng lên men chua và để được lâu. Nem được ăn kèm với chút lá ổi, lá sung, cùng rau thơm cuộn lại, chấm với nư­ớc mắm chanh, tỏi thêm ớt hoặc hạt tiêu.
Cơm cháy

Người dân Ninh Bình, ai cũng thuộc câu "rượu ngon, cơm cháy, thịt dê" và đó thực sự là những đặc sản không thể bỏ qua của đất cố đô. Cơm cháy xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 và sau một thời gian phát triển, đến nay đã trở thành món ăn không thể thiếu trong mỗi bữa cơm đãi khách phương xa của người Ninh Bình.


Cơm cháy được chế biến và bán quanh năm. Ảnh: dulichninhbinh

Cơm đúng tiêu chuẩn phải chọn gạo rất cầu kỳ, pha đúng tỷ lệ giữa các loại gạo nếp và gạo tám. Để tạo xém, phải dùng nồi gang dày và xoay tròn trong quá trình nấu để trắng đều và tự bong ra khỏi thành nồi. Sau khi nấu, xém được phơi hoặc sấy khô, bọc kín trong túi nilon để dùng dần. Khi ăn mới cho những miếng xém vào chảo dầu sôi chưng lên.
Gỏi cá nhệch

Cứ vào cữ mưa ngâu độ 2 tháng là mùa đi bắt cá nhệch. Cá nhệch cùng họ với lươn nhưng nhệch sống ở nơi nước hơi mặn (nhệch củ) và sống ở nước lợ (nhệch khét). Có lẽ bởi cá nhệch trơn và dữ tợn, đánh bắt không dễ dàng nên món cá nhệch đã trở thành đặc sản.


Món gỏi cá nhệch được ưa chuộng nhất. Ảnh: dulichninhbinh


Cá nhệch có thể chế biến được nhiều món như kho, rán, nấu canh chua, om... Nhưng món gỏi cá nhệch là được ưa chuộng nhất. Thịt cá tươi cắt thành lát có màu hồng giống màu thịt cá quả. Thính được làm bằng gạo nếp rang, giã nhỏ mới có mùi thơm và bùi. Thịt cá nhệch được trộn nhanh với thính cho thơm, còn da cá rán giòn để cuộn với gỏi. Khi ăn, mỗi người tùy theo khẩu vị để cuốn gỏi bằng da cá rán hoặc bằng các thứ lá.
Rượu Kim Sơn

Lúa nếp gặt về phơi khô, hong sạch cho vào chum bảo quản để nấu rượu. Để có men quý người ta cho vào đó một số dược liệu có tác dụng thông khí huyết, diệt khuẩn. Để có được rượu ngon người nấu phải có kinh nghiệm lâu năm, nhất là việc bảo quản ủ rượu trong các điều kiện thời tiết và môi trường khác nhau.


Những vò rượu Kim Sơn. Ảnh: dulichninhbinh

Những cô gái Phát Diệm, thị trấn Kim Sơn có làn da trắng ngần, mịn màng, với đôi mắt thẳm sâu mơ màng thường đi bán rượu rong khắp nơi. Tiếng mời chào của họ nồng đượm, ngọt ngào và ngân như chuông và không hiểu có phải từ đó mà hình thành câu thơ như một lời hẹn thề với rượu Kim Sơn: Còn trời, còn nước, con non/ Còn cô bán rượu, anh còn say sưa.
Mắm tép Gia Viễn

Món mắm tép Gia Viễn nổi tiếng thường đ­ược nhiều du khách chọn làm quà có nguồn gốc từ loại tép diu được chọn lựa kỹ lưỡng. Tép diu có thân tròn, nhỏ con, màu xanh lam và phải còn tư­ơi được đem rửa sạch và làm khô. Sau đó lấy thính gạo rang vàng giã nhỏ, cùng với muối chộn đều với tép theo tỷ lệ, rồi bỏ vào hũ bịt kín trên một tháng mới đem nấu chín ăn.

Bát mắm tép đư­ợc múc ra mầu đỏ tư­ơi, có mùi thơm ngọt, rất hấp dẫn. Ng­ười ta có thể giang mắm tép với thịt ba chỉ. Ăn mắm tép Gia Viễn không cần cho thêm bột ngọt, vẫn có vị ngon, ngọt, đậm đà. Ngày nay mắm tép Gia Viễn đã trở thành món ăn đặc sản của các bữa tiệc khi có thêm đĩa rau ngon bên cạnh.

Minh An
Tags: Du lich, Tour du lich Nha Trang Da Lat, Tour du lich Nha Trang, Tour du lich Da Lat

Read More...

Ẩm thực thú rừng Việt Nam trong con mắt người nước ngoài

Trong chuyến đi bằng xe đạp khắp miền Bắc Việt Nam, Kevin Rushby đã phát hiện ra rằng, thậm chí ngay cả ở một số vườn quốc gia, người dân địa phương săn bắt và ăn thịt mọi loại động vật. Con gái ông, Maddie lại là người kén ăn...

Người ta nói rằng một bữa tối ngon miệng chứa đựng trong đó những trình tự của cuộc sống trên trái đất. Bắt đầu bằng món súp "nguyên sinh", "tiến hóa" với cá, thịt gà, thịt chim, trước khi đến đoạn "cao trào" mà tôi đoán đó phải là món pudding hoặc caramel - "đỉnh cao" sự tinh tế của loài người. Readmore: du lịch, du lịch Đà Lạt, du lịch Nha Trang, du lịch Malaysia, du lịch Campuchia, du lịch Nhật Bản


Một lần trải nghiệm món ăn Việt Nam của gia đình ông Kevin Rushby.

Vậy nên tôi mới tự hỏi đây là gì khi nhìn chằm chằm vào những món ăn trước mặt. Một bát tiết canh, rõ ràng là tiết lợn, cạnh đó là cặp chân gà - tôi săm soi nhìn kỹ hơn - nằm bên trên chiếc đầu còn nguyên mỏ. Ở giữa là đĩa cua đồng và cạnh đó là các đĩa thịt, xa lát và giá. Ông chủ nhà rướn người sang tôi cười ngụ ý và mời tôi một chén đầy chất lỏng màu trắng đục.

- Rượu gạo đấy. Loại đặc biệt - Cường, phiên dịch của tôi nói.

Một hồi chuông cảnh giác thoáng rung lên trong đầu tôi. Tôi nhướn lông mày. Cường ngẫm nghĩ kỹ trước khi nói.

- Một phần của con dê được ngâm trong rượu này.

- Phần nào?

Cường nhìn sang con gái tôi, Maddy (9 tuổi), để chắc chắn rằng con bé không nghe thấy, rồi thì thầm: "Ngẩu pín".

Tôi có thể nhìn thấy Maddy cười xếch đến mang tai. "Anh muốn tôi uống thứ rượu ngẩu pín dê đó ư?". Cường cười cười. "Anh sẽ không từ chối được đâu. Rượu đã được rót ra rồi".

Tôi cầm lấy chén. "Anh cảm ơn hộ chủ nhà đã mời, nhưng anh làm ơn nói với ông ấy là tôi ăn rồi". Đó là sự thực và có vẻ là một lý do chính đáng. Giờ là lúc chúc rượu ngẩu pín dê. Tất cả chúng tôi hô to: "Một, hai, ba... zô"!

Thực ra rượu cũng không quá tệ, hương vị giống như bất kỳ loại rượu gạo nào khác. Ông chủ nhà có vẻ rất mãn nguyện và sung sướng với rượu ngẩu pín dê dự trữ sẵn. Tại sao ông ấy có thể uống thứ đó?

"Rất tốt cho sức khỏe" - ông chủ nhà làm một điệu bộ ám chỉ "sức mạnh đàn ông". Vợ ông cười khúc khích. Thực ra tôi không tin đấy là vợ ông, bởi khi tôi rút máy ảnh ra, cô ấy cười ngượng nghịu rồi đi ra chỗ khác.

Bạn chắc chắn sẽ phải ngưỡng mộ khả năng của người Việt khi biến những phần không mấy ngon miệng của động vật thành các món đặc sản. Những chiếc đĩa sạch trơn. Không lãng phí một tẹo nào. Nửa giờ sau, chúng tôi lên xe đạp tiếp tục hành trình: Tôi, con trai Niall 16 tuổi, Maddy và Cường.

Chúng tôi thực hiện hành trình xuyên miền Bắc bằng xe đạp, ăn ngủ tại homestay (nhà của dân địa phương) hoặc những khu rừng quốc gia, suốt từ thung lũng Mai Châu, cách Hà Nội khoảng 100km về phía tây nam, đến gần biên giới Lào, tiến về phía đông nam đến bờ biển, sau đó đến Ninh Bình. Nếu bạn hình dung hình dáng Việt Nam khá giống như con tôm khổng lồ ở tư thế thẳng đứng, hành trình của chúng tôi ở phần dưới của đầu tôm. Mỗi ngày chúng tôi đi không quá 30km để giữ sức cho cô con gái 9 tuổi và luôn có một chiếc xe hộ tống để hỗ trợ ai bị tụt hậu. Chúng tôi hy vọng chuyến đi là một trải nghiệm Việt Nam tuyệt vời, từ ăn ngủ cùng với người dân tộc, đến khám phá những cánh rừng nguyên sinh chưa bị ảnh hưởng bởi tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị. Nhưng rượu ngẩu pín dê là một trải nghiệm hoàn toàn bất ngờ.

Mai Châu chắc chắn được xếp vào khu vực kém phát triển ở Việt Nam. Xung quanh chúng tôi, các bà các cô đội nón lá đang thu hoạch lúa trên cánh đồng. Lòng chảo của thung lũng này hầu như dành hoàn toàn để trồng lúa. Hai bên thung lũng là rừng cây đang lớn rất nhanh. Từ những mái nhà sàn nơi dân bản địa sinh sống, bốc lên những làn khói bếp thơm mùi rơm rạ. Niall và Maddy quấn lấy Cường để hỏi về những món ăn Việt Nam. Tôi nghĩ chúng đang kinh ngạc về những món ăn mà chúng chưa từng thấy. Maddy hầu như không động đũa đến bất kỳ món ăn nào ngoài cơm trắng và bánh mì kể từ khi chúng tôi đặt chân đến Hà Nội hai ngày trước đó. Tôi đã thề không can thiệp để con bé tự khám phá những cơ hội mới. Tất cả chúng tôi đều có những giới hạn của riêng mình và với tôi đó là món tiết canh.

"Các chú ăn bất cứ thứ gì à" - con bé hỏi Cường. "Chú nghĩ là như vậy" - Cường ngẫm nghĩ rồi nói.

"Chú có ăn thịt chó không?". "Có". "Vì sao"? "Vì nó nhiều protein hơn những món thịt khác".

Niall bất chợt nhìn thấy một con chó lông màu cát ở con đường phía trước. "Bữa trưa chăng?". "Không, chúng tôi chỉ ăn loại chó đặc biệt. Còn đây là loại chó nuôi trong nhà".

"Thế chú có ăn thịt mèo không" - Maddy hỏi. "Có". "Chú nấu mèo như thế nào" - Maddy tò mò hỏi. "Mèo có thể chế biến thành 7 món" - Cường liệt kê trước sự ngạc nhiên của bọn trẻ - Luộc, nướng,… đôi khi còn có cả món cháo mèo.

Chúng tôi thận trọng bước qua một cây cầu treo cũ kỹ và băng qua một ngôi làng. Nhà nào ở đây cũng tăng gia sản xuất. Có nhà đào ao thả cá và nuôi vịt. Có nhà trồng những vườn đỗ và cải bắp xanh mướt. Có nhà lại trồng cây ăn quả như nhãn, hồng, vải. Quanh nhà là vô số những nông sản vừa thu hoạch như lúa, lạc, khoai môn cùng những dụng cụ thô sơ như nơm, úp, lưới đánh cá. Tất cả đều gọn gàng, ngăn nắp và không hề thấy bóng dáng rác rưởi hay chai lọ nhựa. Tôi đạp xe ngược lại để kiểm tra Maddy, con bé bị tụt ở phía sau. Nó vừa đi vừa tự hát: "Bạn sẽ không bao giờ thấy điều này ở Norwich đâu, thịt mèo nấu cháo".

Đi thêm một đoạn nữa, chúng tôi bắt gặp một chợ nhỏ ven đường, nơi những con lợn sống nhốt trong rọ tre đang được mua bán tấp nập. Cường mua một ít chuối, quýt và thanh long - tất cả những món mà Maddy đều từ chối. Tôi không nói gì cả. Tôi sẽ không ép con bé phải ăn. Tôi ăn ngon lành mấy quả hồng ngâm vàng óng và chợt nhớ lại con bé đã gọi một đĩa spaghetti "không người lái" ở một nhà hàng hải sản nổi tiếng. Người phục vụ, với một chút ngạc nhiên nhưng vẫn ân cần hỏi: "Cháu có muốn gọi thêm gì không"? Maddy hồn nhiên đáp: "Vâng, thế thôi ạ. Nhưng cho cháu loại sốt pho mát cheddar".

Sau đó, chúng tôi tiếp tục đạp xe thêm vài chục km nữa. Chúng tôi bỏ lại xe tại một túp lều và treo lên đỉnh đồi để tới Pung - một thôn nhỏ có những ngôi nhà sàn bằng gỗ bé nhỏ. Chúng tôi tiếp tục trèo lên những bậc cầu thang nhỏ để vào bên trong một ngôi nhà của người dân tộc Thái trắng. Cách sống của họ chẳng khác mấy so với cách sống mà tổ tiên họ đã từng sống ở Thái Lan vài thế kỷ trước. Sàn nhà được lát bằng những đót tre, mượt mà và sáng bóng lên bởi được những đôi chân trần đi lên trên hàng năm trời.

Chủ nhà mời chúng tôi uống những bát nhỏ đựng trà xanh rồi kế đến đựng rượu gạo. Maddy từ chối cả hai. Còn Naill đồng ý thử rượu. Và bữa trưa được bưng đến trong một chiếc khay lớn: Những bát mỳ nấu với cá chép câu trong hồ, đậu phụ, vài lát măng và những loại lá, rễ lạ hoắc mà tôi chưa từng thấy. Nhưng Maddy chỉ giả vờ ăn một vài sợ mỳ khi những người chủ nhà để ý tới. Tôi tự hỏi bao lâu nữa con bé sẽ quen với ẩm thực nơi đây và cả tôi nữa. Con quỷ trong người tôi lúc đó vẫn gào lên: "Nào, hãy thử cái mới đi".

Sau bữa ăn, chúng tôi đi bộ đến một con đập nhỏ và một con sông nhỏ, mải miết xuyên qua rừng để trở về chỗ để xe đạp. Tôi ngạc nhiên khi không thấy một con thú hoang nào trên đường đi. "Mọi người đang săn bắn chúng", Cường cho biết. Chỉ trước đó không lâu, nơi đây là khu rừng mưa nhiệt đới nguyên sinh dày đặc với nhiều loại thú như hổ, vượn, hươu và hàng trăm loài chim. Việt Nam vốn được coi là một điểm đến sinh vật sinh thái, nhưng thực sự rất ít sự sống sinh vật tại nơi đây. Và không chỉ những nơi có người dân định cư bị ảnh hưởng.

Trong ngày đi thứ ba của mình, sau khi thưởng lãm những cảnh núi non đẹp mê hồn, chúng tôi đến được khu bảo tồn thiên nhiên rộng và lâu đời nhất tại Việt Nam: Công viên quốc gia Cúc Phương - có diện tích rừng 50 nghìn ha trải rộng trên núi. Theo trang web chính thức của Công viên quốc gia Cúc Phương, đây là nơi sinh sống của 97 loài động vật có vú và hơn 300 loài chim. Tuy nhiên, sau khi đi bộ 10km và đạp xe khoảng 20km, chúng tôi chỉ xác định được một con côn trùng hình que và nghe thấy chính xác một tiếng súng nổ. Cúc Phương, dường như giống một khu vườn sạch trơn, thay vì là một công viên quốc gia.

Tại một trung tâm nhỏ bé ở trong công viên - nơi chuẩn bị thả về rừng những con vật được giải thoát khỏi những tay săn bắn, chúng tôi thấy chuồng chồng chuồng, giam giữ những con vật cuối cùng thuộc các loài vật đặc hữu của Việt Nam, trong số đó hầu hết là khỉ langur - loại khỉ đuôi dài ăn lá cây.

Việt Nam là đất nước, nơi mà hổ và voi đang bị triệt tiêu và hủ tục mê tín về tác dụng của thịt các loài vật quý hiếm đã khiến hàng chục loài đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, trong đó gồm 5 trong 11 loài khỉ langur. Giờ đây, việc săn bắt động vật hoang dã vì nhu cầu sinh tồn, đã trở thành ngành dịch vụ phục vụ nhu cầu hiếu kỳ về ăn uống của tầng lớp người giàu có mới nổi. Vào buổi tối ở lại rừng Cúc Phương, khi đang ngồi nghỉ trong một quán ăn nhỏ tại đây, chúng tôi chợt nghe lỏm được từ một đoàn phim người Đức rằng có một công viên khác còn có thể tồn tại cuộc sống hoang dã. Cường xác nhận thông tin này và cho hay đó là công viên Vân Long, ở gần Ninh Bình. Thế là chúng tôi lại lên đường.

Trên đường đi, chúng tôi dừng lại ở một quán ăn. Cường hỏi: "Mọi người có thích ăn dê không? Đây là món đặc sản ở đây". Những đĩa rau, cá, đậu, trứng và thịt được mang ra. Maddy chỉ ăn cơm trắng. Tráng miệng là dứa, dưa hấu, ổi và thanh long song Maddy vẫn tiếp tục từ chối. Có lẽ, ở một nước mà mọi người dường như ăn mọi thứ, Maddy là một sự trái ngược. Con bé không phải người có thể ăn tạp.

Tại Vân Long, chúng tôi chuyển sang di chuyển bằng thuyền tre để du ngoạn trên mặt đầm. Ngay lập tức, chúng tôi nhìn thấy những con chim diệc bạch và chim bói cá. Chúng tôi chèo thuyền xuyên qua một hang động dài, dừng lại để ngắm nghía một chiếc hang cáo thuộc loài hiếm. Và chúng tôi tiếp tục tìm kiếm cơ hội để được nhìn thấy những con khỉ langur. Hiện ở Vân Long còn hơn 50 con khỉ langur, "vương quốc" duy nhất của loài khỉ này còn tồn tại trên trái đất. Thế nhưng, thời gian trôi đi và chúng tôi ngồi im lặng chờ đợi, những con khỉ langur vẫn không xuất hiện. Tôi hỏi người dẫn đường của mình về nguyên nhân tại sao loài khỉ này bị săn bắn nhiều vậy. "Mọi người dùng nó làm thuốc", người dẫn đường trả lời.

- Vẫn có những người đến đây để giết khỉ?

- Vâng. Nhưng chúng tôi canh chừng khu vực này. Họ không thể vào đây mà không để chúng tôi hay biết được.

Maddy thì thầm hỏi: "Có bao nhiêu cách để nấu một con khỉ langur?".

Tôi nhăn mặt:"Con muốn ăn khỉ?".

- "Không".

- "Con sẽ ăn thanh long chứ?".

- "Có thể. Con sẽ ăn thanh long khi nào chúng ta nhìn thấy khỉ?".

Ôi cơ hội này quả thật hiếm hoi.

Bỗng một người chèo thuyền reo lên. Kia, ở trên đỉnh một vách đá cheo leo, dưới ánh nắng chiều muộn là một gia đình nhà khỉ. Tôi thầm ước tính, có đến nửa dân số loài khỉ langur còn ở trên thế giới đang ở trước mắt tôi. Trong vòng vài phút, chúng tôi được chiêm ngưỡng chúng nhảy vòng quanh và cảm giác được chia sẻ giây phút đó với những người dân bản địa - những người cũng đang tỏ ra sung sướng như chúng tôi - thật tuyệt. Tôi thầm nghĩ, chuyến đi dọc Việt Nam của mình có cái kết thật đáng nhớ.

Trên đường về, chia tay với những chú khỉ, chúng tôi ngắm nhìn hàng nghìn con diệc bạch bay vòng vòng trên những chiếc tổ của chúng. Tối hôm đó, Maddy ăn một miếng to thanh long và thừa nhận rằng khá là thích vị của loại trái cây này. Đó là sự nhượng bộ duy nhất của con bé đối với chứng ăn tạp.

(Theo The Guardian/LĐ)

Read More...

Phở Nam Định

Nhà văn Chu Văn từng bảo rằng nghề làm phở phát tích từ thôn Rao Cù huyện Nam Trực của tỉnh Nam Định; hỏi các ông chủ tiệm phở ở Sài Gòn ở cả Vientian (Lào)… thì y như rằng cứ mười ông có chín ông gốc quê Nam Định!

Bây giờ thì khắp các nơi, Hà Nội, Hải Phòng… đâu đâu cũng nhan nhản những biển hàng “Phở gia truyền Nam Định”. Nhưng Nam Định có thật là quê hương của phở không thì lại là chuyện khác.

Dân nghiện phở ở Nam Định than phiền là phở Hà Nội không ra gì. Còn người Hà Nội lỡ có một lần ăn phở ở bến ôtô hay nhà ga Nam Định thì mang ấn tượng xấu mãi.



Ở Nam Định có hai hàng phở cùng có tên là Đán. Một Đán gầy, một Đán béo. Lần đầu tiên đến cái hàng phở nằm ở bên ngách chợ Rồng, tôi lấy làm ngờ cái danh tiếng của ông Đán gầy này.

Có độc hai cái bàn dành cho khách, vài cái ghế, một cái bếp lò chỉ như những cái bếp lò vẫn sử dụng cho một gia đình, cái xoong đặt trên bếp cũng vậy. Hai ông bà già dáng chừng như cán bộ công nhân về hưu mới mở ra cái việc phục vụ ăn uống này để thêm tiền chi tiêu, lúc rờ cái thớt, lúc mó con dao, trông thấy cũng đủ sốt ruột.

Khách khứa chả có ai, chỉ có tôi và một anh bạn, thế mà từ lúc chúng tôi ngồi yên vị đến lúc có được một bát phở đặt trước mặt cũng phải mất đến mười lăm phút.
Những lần khác đến ăn, dù có năm bảy người khách ông cũng vẫn chỉ làm với tốc độ ấy thôi. Có khách đến mới thái bánh.

Ông gỡ nhẹ tay từng tấm bánh một đặt xếp lên thớt, dao đưa cũng từng nhát một, nhát một, thái vừa đủ cho một bát hoặc đến hai bát là cùng. Xếp phở vào bát xong ông mới cầm đến miếng thịt treo trên móc.

Ông cho nó lên thớt, xoay mãi, ngắm mãi rồi mới hạ từng nhát dao. Thịt thái ra cũng chỉ vừa đủ cho từ một, hai bát. Những lát thịt mỏng, đúng thớ, đều tăm tắp lần lượt được xếp vào trong bát. Rồi rau thơm, rồi nước dùng, rồi đưa tới khách ăn.

Trong lòng bát men sứ trắng như lòng trắng trứng, những sợi phở trắng mềm như lụa, nước trong vắt, nếm thấy ngọt khắp khoang miệng, vài lát thịt nổi vân lên như thớ gỗ nằm hờ hững như một kẻ sĩ thời Đông Chu. Rau thơm thái nhỏ, vài cánh mùi xanh mướt mỏng manh, khách ăn cho thêm một hai lát ớt tươi đỏ thắm vào nữa…

Ăn phở phải ăn với chanh tươi, ớt tươi. Bên trong bát phở là một sự tập hợp hài hòa các màu nguyên, vị nguyên – bất cứ một thứ gì trong đó bị ngả màu là làm hỏng vẻ đẹp, cái ngon của bát phở.

Theo Doanh nhân SG cuối tuần - Du lịch Du lịch Nha Trang Du lịch Malaysia Du lịch My Du lịch Châu Âu Du lịch Nhật Bản Du lịch Đà Lạt Du lịch Campuchia

Read More...

Xứ Lạng - 'thiên đường' của đặc sản

Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em…

Đến với mảnh đất Lạng Sơn, du khách không chỉ mãn nhãn với cảnh sắc hùng vĩ, thả hồn cũng sông núi, mà còn được thưởng thức những đặc sản mang đậm hương vị con người vùng rừng núi Đông Bắc.

Đào Mẫu Sơn

Đến Lạng Sơn du khách không thể không ghé thăm đỉnh Mẫu Sơn, một miền sơn cước hùng vĩ với nhiều điều kì thú. Đặc biệt, đây cũng chính là mảnh đất đỏ rực sắc hoa đào với những vườn đào sai trĩu quả. Mỗi năm, Mẫu Sơn chỉ có một mùa đào trong vòng một tháng, nên những trái đào dường như trở thành sản vật vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ưu đãi và ban tặng cho vùng đất này.


Đào Mẫu Sơn.

Khác hẳn với các loại đào tuy chín có màu đỏ rực, thơm nức nhưng thịt lại mềm, nhũn, được phơi giữa nắng gió Mẫu Sơn, những trái đào nơi đây dường như ngọt, giòn và chắc hơn. Bên ngoài có màu xanh nhạt nhưng khi ăn quả có vị ngọt lịm mà lại giòn tan, thịt đào đỏ au và có mùi thơm dịu. Đào Mẫu Sơn vừa to, vừa ngọt. Đào có màu xanh trắng, bên ngoài là lớp vỏ có lông tơ mềm như nhung. Quả của nó có một hạt ở giữa và được bao bọc bởi cùi thịt màu vàng hay ánh trắng. Nhìn vẻ bề ngoài, những trái đào Mẫu Sơn căng mọng với màu sắc hồng hào, tươi đẹp đã hấp dẫn mọi người thưởng thức.

Lợn sữa quay mác mật

Là món ăn đặc sản không thể thiếu trong mâm cỗ của người dân xứ Lạng. Món ăn không chỉ ngon mà còn được chế biến rất kì công, và có hương vị rất riêng. Khó có nơi nào có món lợn quay sánh bằng Lạng Sơn. Bởi lẽ, nếu đơn thuần chỉ chọn lấy con heo làm thịt rồi quay với các gia vị khác thì không tạo nên tính độc đáo của món quay này. Cầu kỳ từ khâu chọn lợn ban đầu. Lợn quay phải chọn những con tầm 20-35kg hơi, loại to quá thì béo, mỡ nhiều ăn sẽ ngấy. Loại nhỏ dưới 20kg thì chưa thành thịt, nhão và không có vị thơm. Lợn cả con được cạo lông làm sạch từ thủ lợn đến chân giò, cạo trắng cả con nhưng không để da lợn bị xước rách, để khi quay chín da lợn không bị vỡ làm mất nước ngọt và mùi thơm của thịt. Lợn làm sạch lông, đem mổ moi hết nội tạng để tẩm ướp gia vị.






Lợn quay mác mật.

Quan trọng nhất là khâu ướp gia vị cho lợn quay. Muối, tiêu được xát đều trong bụng lợn cho ngấm, rồi lấy lá mác mật (Đây là loại cây cho lá và trái thơm, hương lạ và thường được dùng trong các món ăn của các dân tộc Nùng, Tày) loại bánh tẻ rửa sạch cho vào bụng lợn. Lợn quay nóng không xẻ luôn mà phải chờ cho nguội để khi chặt thịt không bị nát. Lợn sau khi quay được chặt chặt thành từng miếng vừa ăn xếp ra đĩa, da óng màu mật, vàng rộm cánh gián. Thịt ăn chắc có vị ngọt của thịt chín tới, vị thơm của lá mác mật, vị béo ngậy của dầu hòa quyện với mật ong rừng.

Phở chua Lạng Sơn

Được biết đến như là món ăn “hàn thực”nên phở chua được ưa chuộng nhất vào mùa thu và mùa hè. Phở chua được coi là món ăn đặc sản đáng tự hào của người Lạng Sơn, bởi vậy nó là món không thể thiếu trong các dịp đón khách quý tới nhà.






Phở chua Lạng Sơn.

Nguyên liệu của món phở chua cũng khá kỳ công với hai phần: nguyên liệu khô và phần nước. Phần khô trước hết phải kể đến là bánh phở được làm se lại sao cho vừa dẻo vừa dai, khoai tây thái chỉ đảo qua dầu ăn cho thật giòn và vàng rộm lên, gan lợn cũng thái mỏng bằng lòng bàn tay rán cháy cạnh,… Phở chua được ăn kèm với các loại thịt cay như: thịt ba rọi, thịt vịt hay dạ dày quay được tẩm ướp tỏi và các gia vị khác tạo nên một hương vị riêng của tô phở.

Những thứ trang điểm cho món phở chua gồm có lạc rang giã dập, các loại rau thơm, hành khô, dưa chuột và vài lát lạp xưởng thái mỏng. Ngoài ra còn có thêm thứ gia vị đặc biệt mà người địa phương quen gọi là xúng xàng tạo ra một hương vị rất lạ. Người ăn tùy khẩu vị của mình có thể thêm một chút chanh tươi, ớt hay tiêu... Món ăn này cầu kỳ nhưng giá cả rất phải chăng, khoảng 4.000-5.000 đồng/bát

Món khâu nhục

Vào những dịp lễ tết, nhà mới, đám cưới… của người Tày, Nùng ở Lạng Sơn không thể thiếu món khâu nhục cổ truyền này. Khâu nhục hay còn gọi là “nằm khâu” theo cách gọi của người dân tộc vốn dĩ mang màu sắc văn hóa Trung Quốc, nhưng qua bàn tay của người dân xứ Lạng đã được biến tấu và trở thành món ngon, độc đáo trong những bữa cơm sang trọng.




Khâu nhục.

Để có món khâu nhục đúng vị, điều quan trọng là phải chọn được miếng thịt ba chỉ ngon của con lợn 60-70 kg là vừa. Thịt ba chỉ được cạo sạch lông, rửa sạch để ráo nước và cắt miếng to khoảng 0,5kg cho vào nồi luộc chín tới. Thịt sau khi luộc sơ được tẩm giấm, xì dầu và húng lìu để lên màu bóng mượt rồi dùng tăm tre nhọn đâm thật kỹ lên bì lợn để bì có khả năng hấp thụ nước cho thật mềm. Đây là bí quyết giúp cho miếng thịt mềm và ngấm đều gia vị hơn của người Tày, Nùng đã dùng từ lâu đời. Sau đó, thịt được đem quay và quết mật ong hoặc chao vàng trong chảo. Gia vị của món khâu nhục rất cầu kì. Lá tàu soi (một loại rau muối mặn của người Hoa, Tày, Nùng ở Lạng Sơn), đem rửa cho hết sạn và độ mặn, băm nhỏ rồi trộn đều với tương tàu, xì dầu, húng lìu, tỏi giã nhỏ xếp xuống dưới đĩa, trên là khoai môn hoặc khoai lang.

Thịt được thái thành từng miếng độ dày mỗi miếng khoảng 1,5cm (mỗi bát 8 miếng) xếp thịt lên trên đĩa thành hình tròn, úp bát to vào lật lại để nguyên đĩa, xếp từng bát thịt vào nồi hấp cách thủy độ 3-4 giờ cho thịt chín và mềm nhừ. Khâu nhục làm xong có màu vàng đều, hấp dẫn và mùi thơm đặc trưng không lẫn vào đâu. Tuy là món ăn quá quen thuộc của người dân xứ Lạng nhưng khâu nhục vẫn là món ăn mà ai cũng “gật gù” khen ngon.

Bánh cuốn trứng Lạng Sơn

Không cầu kì, cao sang nhưng ngon đến lạ lùng… đó là dư vị của món bánh cuốn trứng Lạng Sơn mang lại cho du khách khi ghé thăm vùng đất này. Vẫn là bánh cuốn với gạo được xay mịn thành bột rồi tráng mỏng nhưng điểm khác của bánh cuốn trứng xứ Lạng so với các loại bánh cuốn khác bởi lớp nhân bên trong và nước dùng được chế biến rất lạ. Để chế biến được vỏ bánh cuốn mềm, dẻo mà lại dai, phải chọn được loại gạo ngon, hạt đều. Bởi thế mà người vùng cao thường dùng gạo nương với hương vị đặc trưng, đậm đà của miền sơn cước.


Bánh cuốn Lạng Sơn.

Nước chấm ăn với bánh cuốn là nước ninh từ xuơng ống trộn với thịt băm, thêm chút gia vị đường, ớt, rau mùi băm nhỏ… Bánh cuốn trứng Lạng Sơn phải được thưởng thức ngay khi còn nóng hổi mới ngon. Vì vậy, chỉ khi thực khách ngồi vào bàn, người bán hàng mới bắt đầu làm từng mẻ bánh. Bên cạnh bánh cuốn trứng, những thực khách không thích dùng trứng còn có thể thưởng thức món bánh cuốn thịt băm. Thưởng thức miếng ngon ấy, dù trong cái rét mùa đông, bạn vẫn nghe mồ hôi rịn ra chân tóc. Sau khi căng bụng, thêm một bát nước vối nóng khiến hơi thở bốc khói, nghe cả người rân rân sảng khoái. Dù chỉ đến Lạng Sơn một lần, cũng đủ để bạn nhớ một đời.

Rượu Mẫu Sơn

Trong vắt như nước suối, đậm đà, không quá cay nồng mà cũng không quá nhạt, thơm dịu của lá và rễ cây thuốc…ai đã từng uống một lần thì mãi không quên được, đó là rượu Mẫu Sơn xứ Lạng. Rượu Mẫu Sơn do chính tay người dân tộc Dao sống trên đỉnh Mẫu Sơn (Lộc Bình - Lạng Sơn) chưng cất ở độ cao 800-1000m so với mặt biển bằng phương thức truyền thống, được lưu truyền từ đời này qua đời khác.


Rượu Mẫu Sơn.

Để chưng cất được loại rượu có một không hai này, ngoài nguyên liệu chính là gạo và nước suối (được lấy từ những con suối chảy trong núi có độ cao hơn 1000m), thì chất gây men không thể thiếu là lá rừng. Men lá được pha chế từ hơn 30 loại thảo dược quý hiếm như: cây 30 rễ, dây nước, trầu rừng, dây ngọt,… có tác dụng chữa lành vết thương, phong thấp. Các loại thảo dược sau khi rửa sạch, phơi khô thì trộn đều, giã nhỏ với nhau và đem đun. Đợt nước đầu dùng để nhào bột, nước hai để ngâm gạo. Hương vị đặc trưng của rượu Mẫu Sơn được khẳng định qua việc đòi hỏi sự tỉ mỉ trong từng công đoạn: nấu cơm, trộn men, ủ lên men và cho vào hũ, bịt kín trong khoảng 15-25 ngày mới đem chưng cất.

Hiền Anh (Tổng hợp)

Read More...

Lạ miệng với món ăn Đồng Tháp

Miền Tây Nam bộ mà cái nôi là vùng Đồng Tháp Mười rộng lớn, là giang sơn của những loài sản vật hoang dã trên rừng dưới nước như bông Sen, bông Súng, tôm, ốc, rùa, rắn.... Tìm hiểu cách ăn, cách nấu những món ăn đặc sản của người gốc miền Tây là một trong những nét văn hoá đặc sắc ở Đồng Tháp Mười

Ốc treo giàn bếp

Ốc treo giàn bếp đặc biệt nhất là ốc lác. Hiện nay nhiều hộ ở xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò có phong trào mua ốc lác về nuôi bằng cách dùi những con ốc lác xuống lớp đất mỏng (còn gọi là ốc dùi), sau 3-4 tháng cho thu hoạch, giá cao gấp đôi ốc thường. Ốc lác treo giàn bếp thường lựa loại to, khi cần sử dụng con nào cũng mím miệng cạy khó ra, mình ốc có màu xám như đang thiếu nước. Chuẩn bị cho một buổi tiệc, sau khi rửa sạch hết bụi bặm, ta sắp ốc vào một nắp khạp có chứa sẵn nước quậy trứng gà cho ốc uống; những con ốc nghe có nước bắt đầu cục cựa, há miệng, quơ râu uống nước.






Ốc treo giàn bếp

Khoảng 20 phút khi ốc đã uống hết nước, ta bắt từng con vạt đít, cho vào nồi có sẵn một lớp sả, chút muối và đổ thêm ít nước, đun chừng mười phút thì sôi, các con ốc đã há miệng. Bưng nồi ốc đảo đi đảo lại vài lần cho đều rồi đặt lại bếp độ vài phút là ốc chín.Thưởng thức món ốc lác treo giàn bếp phải từ từ, thịt ốc vừa mềm vừa mập, vừa ngọt, vừa cay của vị ớt lại thơm nồng của sả, thật không thể tả nổi. Ai đã từng thử món ốc treo giàn bếp sẽ nhớ mãi hương vị đặc trưng của nó.

Cá lóc nướng trui

Cá lóc rửa sạch, lựa con chừng 1 kg là vừa, thịt cá vừa ngọt, thơm, lại dễ nướng. Xiên một thanh trúc hoặc thanh tre tươi vót sẵn từ miệng cá cho đến đuôi. Nhiều khi nguời ta còn dùng dao chặt bỏ phần đuôi cá vì như vậy thì khi nướng chín phần bụng và xương cá sẽ không bị ứ máu, thịt cá sẽ không tanh khi để nguội. Sau đó cắm những thanh tre đã xiên cá xuống đất và phủ rơm khô lên, người nướng cá “có nghề” phải lượng sao cho rơm vừa đủ để khi rơm vửa tàn thì cá cũng vừa chín. Rơm dư thì cá khét hoặc chín quá, mất ngọt; rơm thiếu thì cá lại nhão, tanh v.v.


Cá lóc nướng trui

Cá chín, đặt nguyên con lên tàu lá chuối, cạo bớt lớp vảy cá bị cháy, xẻ lằn dài theo bụng cá, mở ra làm đôi là ăn được. Lấy miếng cá còn bốc khói cuốn với bánh tráng, rau sống, chấm vào nước mắm hoặc mắm nêm, bạn sẽ thấy thật sướng miệng khi mùi thơm, vị ngọt béo của cá hoà lẫn với các hương vị của khế chua, chuối chát, ăn hoài không ngấy.

Chuột đồng Đồng Tháp

Một trong những món ăn đặc sắc nhất của vùng đất này là món thịt chuột. Món ăn này đã thân thuộc đến mức đi vào câu ca dân gian “Có chuột nào ngon bằng chuột Cao Lãnh/ Có gái nào bảnh bằng gái Nha Mân”. Hiện nay, thịt chuột ở Cao Lãnh, Đồng Tháp vẫn được giới sành ăn đánh giá là một trong những đặc sản được xếp vào hàng “độc chiêu” của miền Tây. Đặc biệt là các món thịt chuột quay lu, chuột nướng, chuột hấp cơm...




Thịt chuột Đồng Tháp

Món chuột này ăn rất béo, thịt thơm ngon không kém gì thịt nai rừng nên người miền Tây gọi thịt chuột là “nai đồng quê” . Món này dùng kèm với muối tiêu chanh và rau răm, chuối chát, cà chua, dưa leo mới đúng điệu

Rắn Đồng Tháp

Dồi rắn chắc chắn là món đặc biệt vì “không phải ai muốn ăn cũng được”. Đặc biệt, bởi chỉ mùa nước nổi mới có, bởi hương vị lạ lùng không bất kỳ món ăn nào. Cùng với chuột, cá, rắn ở Đồng Tháp Mười vào mùa nước nổi nhiều vô kể. Nào là rắn hổ, rắn ri voi, rắn hổ hành đến rắn bông súng, rắn nước,... nhưng để làm món dồi rắn người dân thường chọn rắn bông súng và rắn nước để chế biến.


Rắn Đồng Tháp


Thịt rắn chưa chế biến

Rắn bắt về, thui hoặc trụng nước nóng cho tróc vảy, rút ruột, rửa sạch bụng để ráo nước, rồi lột da. Thịt rắn bằm nhuyễn, nêm chút gia vị, tiêu, bột ngọt. Phần nguyên liệu này sau đó được dùng để dồn vào phần da rắn cho đến khi căng tròn, rồi dùng dây buộc kín hai đầu hoặc có thể phân thành từng đoạn.

Nem Lai Vung

Nhắc đến huyện Lai Vung (tỉnh Đồng Tháp), người ta thường nhắc đến món đặc sản đi kèm với tên gọi của địa phương nổi tiếng rất lâu đời đó là nem Lai Vung. Nghề làm nem nơi đâu cũng có và cũng với công thức ấy, từng ấy nguyên liệu nhưng cách làm nem chua của người dân nơi đây lại tạo ra hương vị đặc trưng, không nơi nào có được...



Nghề làm nem cũng lắm công phu, làm ra một chiếc nem phải trải qua rất nhiều công đoạn. Thịt làm nem là thịt heo đưa vào cối đá quết nhuyễn, da heo được lạng nhỏ thành từng miếng. Trộn lẫn các thứ thịt, bì, tiêu, ớt, lót kèm lá vông xong nguời ta gói lại bằng lá chuối tươi để từ 3 đến 4 ngày cho lên men ở nhiệt độ khoảng 27-300C. Nem làm ngon và đúng cách phải đủ 8 phần thịt, 2 phần bì, thịt lợn phải tươi, gia vị phải cân đối, gói thật đều tay. Vì vậy mà ở Lai Vung có câu vè : "Từng gói, từng gói nếu ai không giỏi thì gói không đều, từng lá nhỏ tươi bao tròn viên thịt, để lá ít thì nem lâu chua, để thịt vừa vừa thì nem lâu chín..."

Cơm gói lá sen

Cơm nấu bằng gạo huyết rồng với hột sen hấp chín và muối mè, gói trong chiếc lá sen, có thể dùng cho 2 tới 4 người ăn. Ấn mũi dao rạch ba đường vuông góc, vén tấm lá sen lên, sẽ thấy muối mè và hạt sen nổi bật cái màu trắng trên nền cơm đỏ sậm. Cơm ngon, càng nhai càng có vị ngọt và bùi, lại càng bùi béo nhờ tinh chất hột sen và mè tan hòa trong nước bọt.


Cơm gói lá sen


Mùi thơm từ sen khiến cơm có hương vị rất riêng

Cơm rang nóng cùng một chút thịt, lạp xường, hạt sen, trứng... được gói vào lá sen khi mới trút từ chảo xuống. Hương thơm của cơm rang hòa trộn cùng hương sen phảng phất khiến miếng ăn trở thành kỷ niệm khó quên. Và thực khách có thể cảm nhận cả mùa thu qua hương thơm của tấm lá sen già, sợi rơm nếp và từng hơi thơm ngạt ngào của món ăn hết sức tuyệt vời này.

Nguyễn Nhung (Tổng hợp)

Read More...

Những đặc sản không thể bỏ qua khi đến Quảng Nam

Đến miền quê yêu dấu Quảng Nam, bạn sẽ được thưởng thức rất nhiều đặc sản từ biển, rừng núi hay đồng bằng...

Cháo lươn xanh Quảng Nam

Có dịp đến làng Bình Định, Thăng Bình (Quảng Nam), du khách có lẽ khó cầm lòng với các món đặc sản dân dã từ bao đời nay: cháo lươn xanh hay còn gọi là cháo lươn gạo si.

Món lươn xanh được nấu bằng gạo si, một giống lúa địa phương có từ rất xa xưa, dẻo, thơm và có vị ngọt bùi rất riêng. Gạo sau khi làm sạch được nấu loãng với đậu xanh xay nhỏ một nồi riêng. Con lươn dưới đồng còn sống, bỏ vào hũ đất, cho muối sống vào chà xát nhiều lần để hết chất nhờn rồi rửa sạch bằng nước giếng. Tiếp đó, người ta bỏ ngũ tạng lươn rồi chặt từng khúc nhỏ bằng lóng tay, trộn đều với sả xắt mỏng như lá lúa với dầu phụng (dầu lạc), đậu phộng (lạc), thêm chút tiêu, hành, ớt rồi um lên bằng nồi đất đậy phía trong là lá chuối non, ngoài là nắp nồi tạo nên mùi thơm cay nồng.

Cháo múc lên thật nóng rồi cho lươn um vàng vào ăn kèm với rau cải cau xanh thật tươi xắt mỏng như sợi bún cùng với đĩa ngò tây, lá hành, rau răm để riêng với một cái bánh tráng dòn tưng.





Cháo lươn là đặc sản dân dã từ bao đời nay ở Quảng Nam.

Khi ăn, người xứ Quảng có hai cách. Có người bỏ luôn một lần cải và các lọai rau, bánh tráng bẻ nhỏ vào tô cháo vừa thổi vừa xúc từng thìa đưa vào miệng xuýt xoa. Số khác thong thả bỏ từng cọng cải xanh vào từng thìa cháo để thấy vị cau cau của cải xanh, vị bùi của đậu, vị béo mà thơm nồng của lươn, vị ngọt dịu thoang thoảng mùi hương của cây lúa quê nhà. Nhưng tất cả đều ăn nóng và thỉnh thoảng lại cắn một miếng trái ớt xanh làm cho ai nấy ngồi gần thấy mà thèm muốn ăn.

Vì ăn cháo lươn với cải xanh nên người dân ở đây gọi là cháo lươn xanh. Một bát cháo lương gạo si chỉ có 10.000 đồng, cùng với nhấp chén rượu gạo chính hiệu ở đây vừa ngon, lại bổ mà sảng khoái tinh thần vô cùng nên đã thành câu ca: “Gạo Si mà nấu cháo lương/Trai mà không biết uổng đời làm trai”.

Cháo lươn Bình Định ngon nhất là quán của chị Trương Thị Cẩm ở thôn 4. Nhiều du khách, khi tham quan đập Phước Hà, một thắng cảnh nhân tạo của người địa phương cách đó gần 5km, vẫn cố ghé lại quán của chị Cẩm thưởng thức món ăn chân quê bổ khoẻ, rẻ tiền và độc đáo này.

Bánh tổ - hương vị tết Quảng Nam

Trong những món ăn chơi ngày tết của người Quảng Nam và cả trên các mâm lễ dâng gia tiên ngày tết cổ truyền, không thể thiếu bánh tổ. Đây là món bánh đặc sản, bình dân mà hương vị hấp dẫn khó quên một khi đã thưởng thức. Ngay tên gọi bánh tổ đã chứa trong nó ý nghĩa nhớ về tổ tiên, truyền thống đẹp của người Việt trong những ngày sắp sửa và trong tết Nguyên đán. Bánh tổ còn lấy tên từ chính “ngoại hình” của bánh. Không ai gọi là cái bánh tổ, mà gọi là ổ bánh tổ. Nhìn bề ngoài bánh trông như một chiếc bát, được bọc bằng lớp lá chuối dày dặn. Bánh có màu trắng, ngà, cà phê sữa, hay “đen như cục đường bát” tùy vào loại và lượng đường dùng làm nguyên liệu chế biến. Bên trên phủ một lớp mè (vừng). Cầm ổ bánh tổ lên, khứu giác còn cảm nhận được mùi gừng thơm lừng quện trong hương vị bánh.





Trên mâm lễ dâng gia tiên ngày tết cổ truyền, không thể thiếu bánh tổ

Cái hay của bánh tổ là có thể để được lâu, ăn dần dà cả tháng. Có thể dùng dao bản to xắt bánh ra thành từng lát hình cánh cung, sắp ra đĩa dùng. Hoặc “tét” bánh theo kiểu của người Quảng, dùng một sợi dây cước, một đầu cước ngậm miệng, một đầu cầm tay, xắn ngang ổ bánh tổ đang cầm trên tay kia. Bánh tổ đã ăn được vừa dẻo vừa ngọt, nên không chỉ bày trên các mâm lễ dâng gia tiên ngày tết Nguyên đán, mà cả trong mâm lễ tiễn ông Táo về trời, loại bánh ngọt người Quảng Nam ưa dùng cũng là bánh tổ. Người Quảng hay nói vui, cho ông Táo ăn bánh tổ, để ông Táo về trời ngọt giọng, dẻo giọng báo chuyện trần gian một năm qua cho suôn sẻ.

Vì bánh tổ để lâu hàng tháng trời, nên lớp lá chuối do thời tiết dễ bị ẩm làm cho mặt ngoài bánh bị mốc khi để lâu ngày. Bỏ đi thì tiếc, nên người biết dùng sẽ gọt bỏ lớp bề mặt và thành bánh xong rồi mới xắn bánh ra, bỏ vào chảo dầu phụng chiên giòn. Bánh có hương vị đặc trưng khác, hấp dẫn vô cùng. Bánh tổ lúc này không chỉ ngọt, dẻo, thơm lừng mùi gừng, mùi vừng mà còn hơi beo béo, chỉ làm thèm, không hề gây ngán.

Ngày trước, cận tết hầu như nhà nào cũng làm bánh tổ. Giờ không nhiều thời gian, thường người ta đặt bánh tại các nhà làm bánh gia truyền. Ra các chợ ở Quảng Nam và các vùng lân cận ngày giáp tết, cũng thấy bánh tổ được bày bán rất nhiều. Nhưng những người giữ nếp nhà, được tiếng làm bánh ngon vẫn gắng dành ra ít thời gian làm bánh để ít ra cũng đủ bày trêm mâm lễ dâng gia tiên, sau nữa đem biếu xóm giềng ăn tết. Đây giống như một tục lệ, một cách bày tỏ tấm lòng giữa những người “tối lửa tắt đèn” có nhau.

Bánh bột lọc






Bánh bột lọc tuy mộc mạc, dân dã nhưng lại rất ngon, ai đã từng đến với Tam Kỳ - Quảng Nam thực sự không thể quên được hương vị tuyệt vời của loại bánh này.

Mì Quảng

Mỳ Quảng được xem là đặc sản của Quảng Nam, những ai đến du lịch Quảng Nam mà không thưởng thức món ăn này thì quả là điều đáng tiếc.

Cũng như phở, bún hay hủ tiếu, mì Quảng cũng được chế biến từ gạo nhưng có sắc thái và hương vị riêng đặc biệt. Mì được làm từ lá bánh tráng thái thành sợi, nhân mì thường được chế biến từ nhiều loại nguyên liệu khác nhau: tôm, gà, thịt heo, thịt bò, cá lóc, cua… và có cả mì chay dành cho người hành đạo. Nhưng là nhân gì đi nữa thì mì Quảng cũng không thể thiếu cái bánh tráng nướng, trái ớt xanh, lát chanh, vài hạt đậu phộng và đĩa rau sống đi kèm. Rau để ăn mì Quảng thường là rau muống chẻ nhỏ hoặc cây cải con trộn với búp chuối non thái mỏng, rau thơm, rau quế…

Ăn mì Quảng nên ăn vào buổi trưa. Gắp một đũa mì cho vào miệng, cắn một miếng ớt thật cay, húp 1 ngụm nước lèo cho phát ra tiếng “soạt”, khi đó mới thấy cái thú, mới thấy cái ngon đầy miệng. Và phải ăn ngay, ăn từ khi còn nóng. Mì Quảng mà để nguội sẽ mất ngon, lá mì sẽ bị tơi ra, rau sống héo đi, cái mùi thơm giòn của rau, đậu sẽ bị tản bớt…

Ăn mì Quảng mà thiếu bánh tráng thì coi như không đúng cách. Bánh tráng cho ta cái giòn giã và thơm tho, cái béo của dầu mỡ quyện với cái béo của gạo nuớng trong bánh tráng càng làm cho người ăn có cảm giác ngon miệng mà không ớn.





Mì Quảng được xem là đặc sản của Quảng Nam. Những ai đến Quảng Nam mà không thưởng thức món ăn này thì quả là đáng tiếc

Đến Quảng Nam bạn có thể dễ dàng bắt gặp nhiều quán ăn mì Quảng nằm dọc Quốc lộ 1A luôn đông đúc khách sành ăn: quán mì gà Bình Nguyên (huyện Thăng Bình), quán mì gà Kỳ Lý (thị xã Tam Kỳ), quán mì tôm cua Cây Trâm (huyện Núi Thành), quán mì bò Cẩm Hà (thị xã Hội An)… Một tô mì cũng không quá đắt với giá dưới 20.000 đồng.

Đến Hội An bạn cũng có thể ăn mì Quảng:

- Buổi sáng và trưa: ăn mì gà đường Lý Thường Kiệt
- Buổi trưa: mì gà và mì thịt heo, trứng ở Cẩm Hà, đường lên làng gốm Thanh Hà. Nơi này mùa hè ngồi ăn là lý tưởng vì đối diện với sông,
- Tối, sau 7 giờ: ăn mì gà ông Hai, trước kia ông bán ở chợ vải, nay dời về nhà đường Nguyễn Duy Hiệu.

Cá chuồn Núi Thành

Cá chuồn tập trung chủ yếu ở vùng biển Nam Trung Bộ mà nhiều nhất là vùng biển Quảng Nam. Cá có dáng thon dài, lưng xanh, bụng trắng. Điều dễ phân biệt nó với các loại cá biển khác là cặp cánh dài tận đuôi. Nhờ vậy, nó có thể bay, tuy không cao.

Cá chuồn là món phổ biến trong bữa ăn hằng ngày của người dân xứ Quảng độ hè về. Và đã là người Núi Thành thì không ai không biết món cá chuồn xanh nướng cuốn rau sống chấm nước mắm ớt, vừa ăn vừa hít hà trong chiều tà bãi Rạng.

Lạ một điều, riêng loại cá chuồn lại ưa củ nén đến kỳ, dù chế biến dưới hình thức nào, từ chiên, kho đến nướng cũng không thể thiếu loại củ này. Vì thế, khi thấy cá chín vàng ươm, người nướng cá sẽ rưới một vài muỗng dầu ăn có phi củ nén, rồi nướng lại khoảng 5 phút để mùi củ nén bám vào cá đánh tan mùi tanh, tạo nên vị bùi của thịt cá chuồn tươi pha lẫn mùi nén thơm lựng.

Nói không ngoa nhưng quả thật mùi của cá chuồn xanh nướng thấm dầu phi nén có sức lan tỏa và quyến rũ “kinh khủng”. Những ngày hè nắng nóng, chỉ cần chạy xe trên đường dọc bãi Rạng, bạn đã nghe mùi cá chuồn nướng từ các lều, quán bãi biển… chỉ lối ra biển không sợ đi lạc.

Cá chuồn xanh nướng ở ngay bãi biển chỉ cần đánh sạch vảy, làm mang, sau đó quạt than đỏ đặt cá lên vỉ nướng khoảng 30 phút đem ra vừa thổi vừa ăn. Có thực khách đem cá nhúng vào nước biển rồi nướng trên bếp than hồng và thưởng thức hương vị ngọt của cá, vị mặn của nước biển thấm vào mà khen lấy khen để.

Cá chuồn chế biến được nhiều món ngon: cá chuồn áp nén chiên giòn, cá chuồn nấu canh với rau ranh, rau muống, nấu cháo gạo, kho, luộc… Nếu là khách phương xa, bạn sẽ được người dân đãi món cá chuồn nướng. Món ăn dân dã này đơn giản, rẻ tiền nhưng hương vị rất khó quên. Các loại cá chuồn đều có thể chế biến món nướng, nhưng được “đánh giá" cao nhất là cá chuồn xanh tươi được ngư dân đánh bắt trong đêm, sáng vào bờ bán lại cho những hộ kinh doanh ở bãi biển để nướng phục vụ khách.


Cá chuồn là món phổ biến trong bữa ăn hằng ngày của người dân xứ Quảng độ hè về

Nếu được ra khơi cùng với những đoàn tàu đánh cá, bạn sẽ có dịp chứng kiến cảnh cá chuồn từng bầy bay là đà, như đám mây vờn trên mặt biển xanh rờn, chập chờn sóng vỗ. Tầm tháng Ba đến tháng Năm âm lịch, nếu bạn có dịp về biển Rạng (Núi Thành - Quảng Nam) giữa mùa rộ cá chuồn gành, chuồn lộng, chuồn khơi, chuồn cồ, chuồn xanh… bạn sẽ được thưởng thức hương vị thơm ngon và không khỏi ngạc nhiên với những món ăn được người dân địa phương chế biến từ loại cá biển này.

Nếu là khách phương xa, để không bị “chém”, bị chủ quán “treo đầu cá chuồn ốc mít tính tiền cá chuồn xanh”, bạn nên đề nghị được xem và chọn cá ở thùng trước khi nướng để được thưởng thức đúng loại cá chuồn xanh. Và khi ăn, vị cá chuồn xanh cũng rất riêng, thịt không khô như cá chuồn cồ mà mềm, bùi và có vị ngọt ngọt.

Khi nhà hàng, các chủ kinh doanh dịch vụ ăn uống ở bãi biển Rạng nướng bán lại thì mỗi con có giá 15.000 đồng. Nếu khách đến bãi Rạng là dân bản địa thì sẽ rất dễ dàng “nhận diện” được đâu là cá chuồn xanh: nó thường dài chỉ khoảng 20cm (ngắn hơn cá chuồn cồ), bề ngang to hơn cá chuồn khơi, dài hơn cá chuồn ốc mít và điểm khác biệt rõ rệt nhất chính là ở màu da xanh đặc trưng như chính tên gọi của nó.

Cá chuồn xanh thường đắt hơn các loại cá chuồng khơi, chuồn ốc mít, cánh gián… và không cân ký bán mà chỉ bán con. Mỗi con cá chuồn tùy thời điểm, tùy lớn bé, có giá 10.000 đồng/con hay 15.000 đồng/2 con.

Cá chuồn xanh nướng có mùi vị đặc trưng không thể lẫn với bất kỳ loại cá nào. Khi ăn cá chuồn xanh nướng cũng không cầu kỳ, cứ cầm hẳn trên tay, bẻ đôi chấm vào nước mắm nguyên chất hoặc muối sống ớt xanh thì không gì thú vị bằng, vừa ăn vừa xuýt xoa, mằn mặn đầu môi vị muối của đại dương… Nhưng sẽ tuyệt vời hơn nếu cá chuồn nướng quấn trong bánh tráng lề (bánh tráng cuốn) kèm rau sống, chấm nước mắm ớt.

(Theo VietQ)

Read More...